Top 7 cây cầu trọng yếu của Hà Nội nổi tiếng nhất
Trong bài viết này, hãy cùng khám phá top những cây cầu trọng yếu của Hà Nội, từ những công trình cổ kính mang đậm dấu ấn thời Pháp thuộc cho đến những công trình hiện đại đầy ấn tượng. Nghe những câu chuyện hấp dẫn, khám phá những cấu trúc độc đáo này và bắt đầu cuộc hành trình của chúng ta!
Cầu Đông Trù
Cầu Đông Trù là một ví dụ điển hình của việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong xây dựng. Đây là cây cầu vòm ống thép nhồi bê tông đầu tiên ở Đông Nam Á, có khả năng chống chịu động đất cấp 8 độ richter. Tuy tổng chiều dài chỉ 1,1 km nhưng cầu Đông Trù đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối huyện Đông Trù, Vương quốc Anh. và Quận Long Biên, bắc qua sông Cầu Đông Trù, cách cầu Đuống và cầu Long Biên khoảng 4,5 – 5 km. Tổng chiều dài cầu là 1240m, trong đó cầu chính dài khoảng 500m, rộng 55m, 8 làn xe chạy cả 2 chiều.
Cầu Đông Trù được chính thức khởi công vào ngày 10 tháng 9 năm 2006. Sau 8 năm xây dựng, cầu được thông xe vào ngày 9 tháng 10 năm 2014. Cây cầu không chỉ được coi là bước đột phá quan trọng trong sự phát triển của thủ đô mà còn là yếu tố tạo động lực phát triển khu công nghiệp, đô thị phía Bắc sông Hồng.
Phần Cầu Đông Trù rộng 55m, có 8 làn xe. Ngoài hệ thống đường dẫn hai chiều, cầu còn gồm 3 nhịp chính, trong đó 2 nhịp bên dài 80m và nhịp giữa dài 120m. Điều đáng chú ý là việc xây dựng cây cầu này áp dụng một công nghệ mới, đó là cây cầu vòm ống thép nhồi bê tông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Cầu Vĩnh Tuy
Cầu Vĩnh Tuy nằm ở địa phận Vĩnh Tuy, thành phố Hà Nội, là cây cầu bắc qua sông Hồng, một đầu cầu dẫn vào trung tâm Hà Nội, nối huyện Nhĩ Chính và huyện Long Biên. Ngay bên dưới, do được phù sa bồi đắp nên đã hình thành một vùng đất rộng lớn thông thoáng, có tính ước lệ cao.
Nơi đây như bị lãng quên giữa nhịp sống hối hả, chỉ cách trung tâm thành phố hơn 30 phút lái xe, bước chân đầu tiên qua cầu là bạn sẽ cảm nhận ngay không khí khác hẳn. Trong lành và thoáng mát. Đây là cầu kết cấu dầm hộp bê tông cốt thép dự ứng lực, sơ đồ nguyên lý cầu liên tục nhiều nhịp. Được xây dựng bằng công nghệ đúc hẫng, cây cầu đã lập kỷ lục nhịp hẫng tại Việt Nam (135m, so với 130m của cầu Thanh Trì).
Cầu Vĩnh Tuy được khởi công xây dựng vào ngày 3 tháng 2 năm 2005. Sau khi hoàn thành, nó sẽ tăng khả năng lưu thông giữa hai bờ sông Hồng và đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng giữa trung tâm thủ đô với khu vực.
Cầu Thăng Long
Cầu Thăng Long cách cầu Long Biên 11 km trên thượng nguồn sông Hồng. Quá trình chuẩn bị, thiết kế và xây dựng cầu Thăng Long kéo dài rất lâu. Cầu được xây dựng trong 11 năm (1974-1985) và được coi là công trình của tình hữu nghị xuyên thế kỷ Việt – Xô, là cây cầu lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á lúc bấy giờ. Cầu được khởi công xây dựng vào ngày 26/11/1974 và chính thức thông xe vào ngày 09/05/1985.
Đây là cây cầu duy nhất ở Hà Nội có thời gian xây dựng lâu nhất (11 năm), ban đầu do Trung Quốc giúp đỡ, nhưng đến năm 1978, Trung Quốc đơn phương thất hứa, cắt viện trợ và rút hết chuyên gia khiến công trình bị bỏ dở, kéo theo đó là Liên Xô Tiếp quản, giúp đỡ, khôi phục xây dựng (việc khôi phục xây dựng bắt đầu từ tháng 6/1979 và cơ bản kết thúc vào năm 1985). Là cầu nối huyện Đông Anh và Pác Từ Liêm, nối thủ đô với sân bay quốc tế Nội Bài, là cửa ngõ quan trọng để khách du lịch quốc tế đến Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.
Cầu Thăng Long được thiết kế hai tầng, tầng trên dành cho ô tô, tầng dưới dành cho đường sắt. Cầu đường sắt dài hơn 5 km và cầu đường cao tốc ô tô dài hơn 3,1 km. Cầu có tổng chiều dài khoảng 10,7 km, là cây cầu dài nhất Việt Nam thời bấy giờ.
Cầu Thanh Trì
Cầu Thanh Trì là công trình lớn nhất trong số 7 dự án cầu của Hà Nội bắc qua sông Hồng nối quận Hoàng Mai và Long Biên, được đánh giá là công trình cầu lớn nhất Đông Dương hiện nay. Đây là cây cầu nối Thủ đô với các trục đường chính của các tỉnh phía Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các lái xe tải trọng lớn không phải chờ đợi do tắc đường. Dự án cầu Thanh Trì có tổng mức đầu tư 5.700 tỷ đồng (410 triệu USD), sử dụng nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản (thông qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản – JBIC).
Chủ đầu tư là Bộ Thông tin liên lạc Việt Nam, Ban quản lý dự án Thăng Long là đại diện chủ đầu tư. Cầu Thanh Trì được hoàn thành và thông xe năm 2007, là một trong những cây cầu bê tông cốt thép dự ứng lực dài và rộng nhất Việt Nam, đồng thời là công trình cầu ứng dụng một số công nghệ mới. Đây cũng là một trong sáu cây cầu bắc qua sông Hồng ở Hà Nội.
Cầu chính dài 3.084m, chiều dài hơn 12.000m, rộng 33,10m, quy mô 6 làn xe (4 làn xe trên cao tốc), tốc độ cho phép 100 km/h. Trên toàn tuyến còn có 5 nút giao thông, đó là: điểm đầu tuyến Pháp Vân – Cầu Giẽ, đường Nguyễn Tam Trinh, kè Lĩnh Nam, kè Gia Lâm và điểm đầu tuyến Hà Nội – Lạng Sơn tại số 11. 5 Quốc Lộ Gia Lâm.
Cầu Nhật Tân
Cầu Nhật Tân là một trong những cây cầu huyết mạch của thủ đô Hà Nội, là cây cầu dây văng dài nhất Việt Nam với tổng chiều dài 9 km. Vẻ tráng lệ, hiện đại của Cầu Nhật Tân bắt nguồn từ phương thức thiết kế tiên tiến và ứng dụng công nghệ bê tông cốt thép dự ứng lực mang tính đột phá của thế giới. Là một trong những dự án giao thông trọng điểm của Hà Nội nối quận Tây Hồ và huyện Đông Anh, kết cấu nhịp chính là cầu dây văng nhiều nhịp 5 tháp.
Dây văng hình thoi và 6 nhịp. Cầu được hình thành như một biểu tượng mới của thủ đô Hà Nội, với 5 nhịp cầu dây văng tượng trưng cho 5 cửa ô. Cầu Nhật Tân không chỉ có ý nghĩa kinh tế to lớn trong quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản, mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội.
Tổng chiều dài công trình là 8.933m, trong đó chiều dài Cầu Nhật Tân là 3.755,0m, mặt cắt theo quy mô cầu thiết kế vĩnh cửu là 33,2m. Cầu chính là cầu dây văng liên tục có 5 tháp, tổng chiều dài 1500m (nhịp chính dài 300m). Tổng chiều dài đường hai đầu cầu là 5178,8m. Trên toàn tuyến có 4 nút giao thông, trong đó có 3 nút giao thông khác mức.
Đây là công nghệ sản xuất bê tông hiện đại nhất thế giới hiện nay và lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam. Công nghệ này là cơ sở cho sự bền vững đặc biệt của Cầu Nhật Tân. Theo nhà thiết kế, Cầu Nhật Tân có thể chịu được động đất mạnh 8 độ Richter và dự kiến sẽ tồn tại hàng trăm năm.
Cầu Chương Dương
Cầu Chương Dương là cây cầu huyết mạch của cửa ngõ phía Đông Hà Nội, nối hai bờ sông Hồng. 30 năm qua, cây cầu là chứng nhân lịch sử của quá trình đổi mới đi lên của Hà Nội và là một phần lịch sử của Hà Nội.
Cầu Chương Dương dài 1.230 m, có 21 nhịp, trong đó 11 nhịp thép và 10 nhịp bê tông. Cầu được chia thành 4 làn xe, ở giữa mỗi bên có làn cánh gà rộng 5m, ngoài cùng là làn xe máy rộng 1,5m. Ban đầu, cầu Đối Dương được xây dựng theo phương án thiết kế là cầu treo dân sinh với 3 nhịp chính bắc qua sông. Để thi công cây cầu này, việc quan trọng nhất là phải đóng các cọc cột nhịp chính xuống sông Hồng đến độ sâu khoảng 60m.
Về lý thuyết là có, nhưng vào thời điểm đó chúng tôi không có một chiếc búa tạ đủ lực tác động để đóng cọc lên độ cao cần thiết. Một yếu tố quan trọng khác trong việc xây dựng cầu treo là không có dây cáp chính xây dựng từ bờ nam sang bờ bắc. Trước tình hình đó, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ GTVT đã họp bàn, quyết định phương án chuyển cầu Sùng Dương từ cầu treo sang cầu cứng.
Đây là cây cầu quy mô lớn đầu tiên nối trung tâm quận Hoàn Kiếm và quận Long Biên ở Việt Nam được thiết kế và xây dựng mà không có sự hỗ trợ kỹ thuật của các kỹ sư nước ngoài. Cây cầu được xây dựng nhanh chóng bằng cách sử dụng vật liệu “sẹo đầu và đuôi” từ cầu Thăng Long chưa hoàn thành. Cầu Chương Dương nằm ở vị trí đắc địa nối trung tâm quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên và các khu vực lân cận, được xây dựng từ năm 1985 đến nay, cầu đóng vai trò quan trọng trong giao thông vận tải và phát triển kinh tế của thủ đô.
Cây cầu này đã góp phần giải quyết cơ bản giao lưu kinh tế, xã hội giữa Hà Nội với các tỉnh, thành phía Bắc sông Hồng, làm “thay da đổi thịt” vùng đất phía Đông Hà Nội. Làng xóm, đồng ruộng giờ đã mọc lên khu công nghiệp, nhà máy, phố xá sầm uất. Vì vậy, cây cầu mang ý nghĩa lịch sử và văn hóa to lớn. Nhưng Cầu Chương Dương đã trở thành “cứu cánh” của cầu Long Biên “yếu ớt”, và nó đã đi vào lịch sử Hà Nội với niềm tin yêu của mỗi người dân Thủ đô.
Cầu Long Biên
Cầu Long Biên được người Pháp xây dựng trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) đầu thế kỷ 20 và đã trở thành biểu tượng lịch sử chứng kiến bao đổi thay của thủ đô Hà Nội. Khi mới xây dựng, cầu chủ yếu dùng cho tàu hỏa, hai bên cầu có vỉa hè, một số ít phương tiện thô sơ, chủ yếu là xe thồ. Từ năm 1920 trở đi, ô tô du nhập vào Việt Nam và trở nên phổ biến hơn, hai bên đường được mở rộng.
Năm 1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Dumer đã phê duyệt dự án xây dựng cầu Long Biên, với mục đích cải thiện cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu khai thác thuộc địa của Pháp. Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương chọn công ty Daydé & Pille làm nhà thầu chính thiết kế và xây dựng cầu với kinh phí 5.900 franc.
Tuy nhiên, trên thực tế, tổng chi phí của dự án lớn nhất ở Đông Dương là 6.200.000 franc. Việc xây dựng cầu Long Biên cũng giúp hàng hóa lưu thông từ trung tâm đồng bằng Bắc Bộ đến Hải Phòng và ngược lại Hà Nội dễ dàng hơn. Ngày 13 tháng 9 năm 1889, cầu chính thức khởi công bên tả ngạn sông Cái, do Daydé & Pille thiết kế và áp dụng thiết kế dầm then.
Cầu Long Biên đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Lẽ thường năm 1954, cây cầu đứng đó, chứng kiến niềm vui mừng ngày thủ đô giải phóng giữa một biển cờ. 21 năm sau, cầu Long Biên một lần nữa chứng kiến ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Cầu Long Biên không chỉ là một cây cầu vô hồn, nó như một chứng nhân lịch sử, ghi lại toàn bộ quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của đất nước ta.
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng, nối hai quận Long Biên và Hoàn Kiếm của Hà Nội. Ngoài ra, cầu Long Biên còn được coi là chứng tích lịch sử quan trọng chứng kiến những thăng trầm của Hà Nội trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Cầu Long Biên vẫn là biểu tượng và niềm tự hào của người dân Hà Nội và của cả người dân Việt Nam nói chung. Đến Hà Nội tham quan và đi qua những cây cầu minh chứng cho lịch sử lâu đời của nước ta.